Người Việt Nam đầu tiên đến Mỹ là ai ?
Đó là ông Trần Trọng Khiêm (còn có tên khác là Lê Kim), người làng Xuân Lũng, huyện Sơn Vị, phủ Lâm Thao (nay thuộc huyện Phong Châu, tỉnh Phú Thọ).
Trần Trọng Khiêm sinh năm Tân Tỵ (1821). Thuở nhỏ, ông học ở quê nhà, nổi tiếng hay chữ, nhưng không đi thi. Năm 20 tuổi, ông lập gia đình với người họ Lê cùng làng, rồi theo nghề buôn bán gỗ ở Bạch Hạc (Việt Trì) và Phố Hiến (Hưng Yên). Năm 1843, vợ ông Khiêm bị một viên chánh tổng hại chết vì chiếm đoạt bà không được. Căm giận, ông giết chết ông này để trả thù cho vợ, rồi trốn đến Phố Hiến, xin làm thủy thủ cho một tàu buôn nước ngoài.
Sau khi lần lượt trải qua Hương Cảng Việt Nam, Anh, Hà Lan,…cuối cùng ông đến thành phố New Orleans (Hoa Kỳ) vào khoảng năm 1849. Tại đây, ông gia nhập vào đoàn người ô hợp do Mark (người Canada) lập nên, để đi tìm vàng ở miền Viễn Tây Hoa Kỳ.
Ông Khiêm đã sống và làm nhiều nghề trên đất Mỹ trong khoảng 7 – 8 năm. Suốt thời gian trốn chạy giữa năm 1843, làm nghề thủy thủ đường biển và trên đất Mỹ, ông Khiêm đều khai tên tuổi theo họ vợ là họ Lê và tên là Kim gần gũi với cách phát âm tên Khiêm – còn giấy tờ ghi theo lối Mỹ là Lee Kim.
Năm 1854, chán cảnh hỗn độn, truỵ lạc và cướp bóc ở nơi ấy, ông tìm đến California, làm công việc chạy tin tự do cho vài tờ báo như tờ Alta California, Morning Post, và làm biên tập viên cho tờ nhật báo Daily Evening. Đề tài mà ông thường viết là về cuộc sống đầy hiểm họa và cay đắng của những người khai khoáng ở bắc California và quanh khu vực San Francisco…
Sau nhiều năm bôn ba ở nước ngoài, năm 1854, Trần Trọng Khiêm trở về nước. Nhưng vì sợ bị bắt, nên ông không về quê mà vào Định Tường (Nam Kỳ) để khai hoang lập nghiệp, trong thân phận là một người Minh Hương. Và ông là một trong những người đầu tiên đứng ra khai phá, lập nên làng Hòa An thuộc phủ Tân Thành, tỉnh Định Tường xưa (nay thuộc tỉnh Đồng Tháp. Tại đây, ông tục huyền với một người phụ nữ họ Phan và sinh được hai người con trai, đặt tên là Lê Xuân Lãm và Lê Xuân Lương (lấy tên đệm là Xuân để tưởng nhớ quê cũ của ông là làng Xuân Lũng).
Năm 1864, quân Pháp đã đánh chiếm xong ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ, sau đó họ lần lượt mở các cuộc tấn công ba tỉnh miền Tây còn lại. Để cản ngăn quân xâm lược, Trần Trọng Khiêm tình nguyện theo thủ lĩnh Võ Duy Dương (1827-1866) mộ quân chống lại. Sau đó, ông được giao chỉ huy một đội quân, và đã đụng độ với quân Pháp nhiều trận ở Mỹ Trà (nay thuộc thành phố Cao Lãnh), Cao Lãnh, Cái Bè, Cai Lậy.
Năm 1866, trong một đợt truy quét của quân Pháp do tướng De Lagrandière chỉ huy, đồn quân do Trần Trọng Khiêm cai quản bị thất thủ. Không chịu bị bắt, ông đã tuẫn tiết. Năm ấy, ông mới 45 tuổi. Sau đó, thi hài ông được nghĩa quân chôn cất tại Gò Tháp (nay thuộc huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp.
Ghi công ông, hiện ở phường Long Bình, quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh có con đường mang tên Trần Trọng Khiêm, nối phố Nguyễn Xiển với phố Mạc Hiển Tích.
NuocMy
Leave a Reply