Đảo Guam
Nét Việt đặc trưng nhất ở đây là 80 con trâu bằng sợi thủy tinh to như thật được chị Mai Anh – một Việt kiều ở đây mang từ Việt Nam sang để trang trí trên đường phố.
Hiện có khoảng 200 người Việt tại đảo Guam, có tới bảy tám tiệm ăn do người Việt Nam làm chủ, tiệm nào cũng có món phở nhưng người địa phương thích nhất là món hủ tiếu nấu theo kiểu Việt Nam mà họ gọi là combination soup. Ở Guam chỉ có hai bác sĩ người Việt, còn phần đông là buôn bán. Có người từ California hay từ những tiểu bang khác qua Guam mở quán Karaôkê hay hộp đêm để phục vụ du lịch.
Lịch sử
Nhà hàng hải Bồ Đào Nha Ferdinand Magellan phụng lệnh Vua Tây Ban Nha đã đến đảo năm 1521 trong chuyến đi vòng quanh trái đất. Tướng Miguel López de Legazpi tuyên bố chủ quyền Guam cho Tây Ban Nha năm 1565. Người Tây Ban Nha bắt đầu thuộc địa hóa lãnh thổ này năm 1668 khi Cha San Vitores đến nơi đây. Ông thiết lập một cơ sở truyền đạo Công Giáo đầu tiên. Quần đảo lúc đó được cai trị từ Philippine như một phần của Đông Ấn thuộc Tây Ban Nha. Giữa năm 1668 và năm 1815, Guam là một nơi dừng chân quan trọng trên đường giao thương của Tây Ban Nha giữa Mexico và Philippines. Guam cùng với phần còn lại của Quần đảo Mariana và Quần đảo Caroline được Tây Ban Nha xem như một phần thuộc địa của họ tại Philippines. Trong khi nền văn hóa Chamorro là đơn lập, các nền văn hóa của cả Guam và Quần đảo Bắc Mariana bị ảnh hưởng truyền thống và văn hóa Tây Ban Nha rất nặng nề.
Hoa Kỳ chiếm lấy đảo năm 1898 sau Chiến tranh Tây Ban Nha-Mỹ. Guam trở thành một trạm phục vụ cho các tàu chiến Hoa Kỳ đi lại từ Philippines trong khi Quần đảo Bắc Mariana sang tay qua Đức rồi Nhật Bản.
Bãi biển đảo Guam |
Địa lý
Guam nằm ở vị trí 13.5° bắc 144.5° đông và có diện tích là 210 dặm vuông (544 km²). Nó là đảo cận nam nhất của Quần đảo Mariana và là đảo lớn nhất trong Quần đảo Micronesia. Chuỗi đảo này được hình thành bởi các mảng kiến tạo Thái Bình Dương và Philippines. Rãnh Mariana, một vùng bị quằn sâu, nằm bên cạnh chuỗi đảo về phía đông. Challenger Deep, điểm sâu nhất trên Trái Đất, ở phía tây nam của Guam có độ sâu khoảng 35.797 ft (10.911 mét). Điểm cao nhất tại Guam là Núi Lamlam cao 1.332 ft (406 m). Đảo Guam dài 30 dặm Anh (48 km) và rộng từ 4 dặm (6 km) đến 12 dặm (19 km). Thỉnh thoảng Đảo bị động đất vì nó ở rìa phía tây của Mảng Thái Bình Dương và gần mảng Philippines.
Phần phía bắc của đảo có bình nguyên rừng với đất đá vôi và bờ đá san hô trong khi phía nam có những đỉnh núi lửa có thảo nguyên và rừng. Một bờ đá san hô bao quanh phần lớn đảo, trừ những nơi có vịnh cung cấp lối ra cho các con sông nhỏ và suối nước chảy từ các ngọn đồi xuống Thái Bình Dương và biển Philippines. Dân số của đảo tập trung nhiều nhất ở khu vực phía bắc và miền trung.
Khu dowtown của đảo Guam nhìn từ trên cao |
Khí hậu
Khí hậu có nét nhiệt đới duyên hải. Thời tiết thường nóng và rất ẩm với ít thay đổi nhiệt độ theo mùa. Nhiệt độ cao trung bình là 86 °F (30 °C) và nhiệt độ thấp trung bình là 74°F (24 °C) với lượng mưa trung bình hàng năm là 96 inch (2.180 mm). Mùa khô kéo dài từ tháng 12 đến tháng sáu. Những tháng còn lại là mùa mưa. Tháng 1 và tháng 2 được xem là tháng mát nhất trong năm với nhiệt độ ban đêm khoảng từ 75 đến 70 °F và thông thường có độ ẩm thấp hơn. Tháng dể có bão nhất là tháng 10 và tháng 11. Tuy nhiên chúng cũng có thể xảy ra quanh năm. Trung bình có ba cơn bão nhiệt đới và một cơn bão lớn đi qua Guam trong vòng 180 hải lý (330 km) mỗi năm.
Nhân khẩu
Theo Điều tra Dân số Hoa Kỳ năm 2000, dân số của Guam là 154.805[5] Dân số ước tính năm 2007 cho Guam là 173.456[6]. Cho đến năm 2005, sự gia tăng dân số hàng năm là 1,76%[7]. Nhóm dân đông nhất là người bản xứ Chamorros, chiếm 57% tổng dân số. Nhóm dân lớn thứ nhì là người Philippines chiếm 25.5%, người da trắng 10%, Trung Hoa, Nhật, Triều Tiên và các nhóm dân khác. Ngày nay, Giáo hội Công giáo Rôma là tôn giáo lớn nhất chiếm 85%. Ngôn ngữ chính của đảo là tiếng Anh và tiếng Chamorro.
Các cô gái đảo Guam |
Văn hóa
Văn hóa Chamorro truyền thống được thể hiện trong điệu múa, đi biển, nấu ăn, bắt đánh cá, các trò chơi (như batu, chonka, estuleks, và bayogu), các bài hát và kiểu cách bị ảnh hưởng bởi sự di dân của những người từ những nơi khác đến. Chính sách của Tây Ban Nha thời thuộc địa (1668-1898) là một chính sách thu phục và khuyến khích cải đạo sang Giáo hội Công giáo Rôma. Tình trạng dẫn đến việc loại dần các chiến binh nam của Guam và đẩy người Chamorro ra khỏi quê hương của họ.
Văn hóa cốt lõi của Chamorro là sự kết hợp phức tạp qui định xã hội đặt trọng tâm vào sự kính trọng: Từ việc hôn bàn tay của người già, lưu truyền những huyền thoại, bài hát, và các nghi lễ tán tỉnh, đến việc một người cầu xin tha thứ từ tổ tiên đã khuất khi đi vào rừng sâu. Những phong tục tập quán có từ trước khi Tây Ban Nha xâm chiếm bao gồm làm thuyền galaide, làm nhạc cụ belembaotuyan,…
Leave a Reply